Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014

VAT LIEU COMPOSITE

Nhựa Vinylester

Vinylester có cấu trúc tương tự như polyester, nhưng điểm khác biệt chủ yếu của nó với polyester là vị trí phản ứng, thường là ở cuối mạch phân tử do vinyl ester chỉ có kết đôi C=C ở hai đầu mạch mà thôi. Toàn bộ chiều dài mạch phân tử đều sẵn chịu tải, nghĩa là vinylester dai và đàn hồi hơn polyester. Vinylester có ít nhóm ester hơn polyester, nhóm ester rất dễ bị thủy phân, tức là vinylester kháng nước tốt hơn các polyester khác, do vậy nó thường được ứng dụng làm ống dẫn và bồn chứa hoá chất....

Khi so sánh với polyester thì số nhóm ester trong vinyl ester ít hơn, nghĩa là vinyl ester ít bị ảnh hưởng bởi phản ứng thủy phân. Thường dùing vật liệu này như là lớp phủ bên ngoài cho sản phẩm ngập trong nước, như là vỏ ngoài của tàu, thuyền. Cấu trúc đóng rắn của vinyl ester có khuynh hướng dai hơn polyester, mặc dù để đạt tính chất này, nhựa cần nhiệt độ cao sau đóng rắn.

Nhựa Epoxy

Epoxy là đại diện cho một số nhựa có tính năng tốt nhất hiện nay. Nói chung, epoxy có tính năng cơ lý, kháng môi trường hơn hẳn các nhựa khác, là loại nhựa được sử dụng nhiều nhất trong các chi tiết máy bay. Với tính chất kết dính và khả năng kháng nước tuyệt vời của mình, epoxy rất lý tưởng để sử dụng trong ngành đóng tàu, là lớp lót chính cho tàu chất lượng cao hoặc là lớp phủ bên ngoài vỏ tàu hay thay cho polyester dễ bị thủy phân bởi nước và gelcoat.

Nhựa epoxy được tạo thành từ những mạch phân tử dài, có cấu trúc tương tự vinylester, với nhóm epoxy phản ứng ở vị trí cuối mạch. Nhựa epoxy không có nhóm ester, do đó khả năng kháng nước của epoxy rất tốt. Ngoài ra, do có hai vòng thơm ở vị trí trung tâm nên nhựa epoxy chịu ứng suất cơ và nhiệt nó tốt hơn mạch thẳng, do vậy, epoxy rất cứng, dai và kháng nhiệt tốt.

Nhựa epoxy, ta dùng chất đóng rắn để tạo mạng không gian ba chiều. Chất đóng rắn ưa sử dụng là amine, được cho vào epoxy, lúc này giữa chúng sẽ xảy ra phản ứng hoá học. Thường nhóm epoxy sẽ phản ứng kết khối với nhóm amine, tạo ra cấu trúc phân tử ba chiều phức tạp. Amine kết hợp với epoxy theo một tỉ lệ nhất định, đây là yếu tố quan trọng vì việc trộn đúng tỉ lệ đảm bảo cho phản ứng xảy ra hoàn toàn. Nếu tỉ lệ trộn không đúng thì nhựa chưa phản ứng hoặc chất đóng rắn còn dư trong hỗn hợp sẽ ảnh hưởng đến tính chất sản phẩm sau đóng rắn.

Để đảm bảo tỉ lệ phối trộn chính xác, nhà sản xuất thường công thức hoá các thành phần và đưa ra một tỉ lệ trộn đơn giản bằng cách đo khối lượng hay thể tích của chúng.

Cả nhựa epoxy lỏng và tác nhân đóng rắn đều có độ nhớt thấp thuận lợi quá trình gia công. Epoxy đóng rắn dễ dàng và nhanh chóng ở nhiệt độ phòng từ 5-150oC, tuỳ cách lựa chọn chất đóng rắn. Một trong những ưu điểm nổi bật của epoxy là co ngót thấp trong khi đóng rắn. Lực kết dính, tính chất cơ lý của epoxy được tăng cường bởi tính cách điện và khả năng kháng hoá chất.

Ứng dụng của epoxy rất đa dạng, nó được dùng làm: keo dán, hỗn hợp xử lý bề mặt, hỗn hợp đổ, sealant, bột trét, sơn.



Vật liệu gia cường

Vật liệu tăng cường (hay cốt) cung cấp cơ tính như:độ cứng độ bền phá hủy… và củng cải thiện một số tính chất lý học:tính dẫn,chịu nhiệt độ,độ bền mòn,tính dẫn điện…cho vật liệu composite.Đối với vật liệu tăng cường,người ta quan tâm đến đặt trưng sau:cơ tính phải cao,tỷ trọng nhỏ,tương thích với nhựa,dể gia công chế tạo…..Tùy vào mục đích sử dụng,vật liệu tăng cường có thể có dạng hạt hoặt sợi với các nguồn gốc khác nhau:hữu cơ,vô cơ,kháng chất,nhân tạo,tổng hợp….Vật liệu gia cường ở dạng sợi thường có dạng:Dạng dài(sợi mảnh filament,bó sợi stran,chỉ yarn,sợi thô roving…)Dạng vải(vải bình thường,mat…)Dạng nhiều phương(bện,tết,dệt,phức tạp…)

Sợi thủy tinh

Người ta gọi tên thủy tinh dựa trên thành phần hóa học và tính năng của nó như:E ứng dụng chung, tính dẫn điện tốt.D tính cách điện cao.A hàm lượng kiềm cao.C độ bền hóa học cao.R,S độ bền cơ học cao.Thủy tinh E được sử dụng thông thường và chiếm tỷ lệ cao nhất.Ưu điểm chính của sợi thủy tinh:Tỷ số tính năng cơ lý cao.Có nhiều dạngKết dính tốt với tất cả các loại nhựa.Kháng nhiệt độ tốt.Ít co dãn do nhiệt.Một đặc điểm đáng chú ý của sợi thủy tinh giữ được các cơ tính ở nhiệt độ khá cao,khoảng 200°C đối với thủy tinh E và khoảng 250°C đối với thủy tinh R.Chống ẩm và chống ăn mòn tốt,truyền nhiệt kém.

Xúc tác

Các chất xúc tác chỉ được cho vào nhựa trước khi gia công. Vai trò của chúng là tạo gốc tự do kích động cho quá trình xúc tác phản ứng đồng trùng hợp.

Tác nhân kích thích cho sự tạo thành gốc tự do có thể là chất xúc tiến, bức xạ ánh sáng, tia tử ngoại hay nhiệt độ.

Chất xúc tác gồm các loại

Xúc tác Peroxide

Peroxide : thông dụng nhất là benzoil-peroxide

Nó là loại bột trắng, tồn tại ở ba dạng : khô (khoảng 5% ẩm), paste trong nước (khoảng 25% nước), và thông dụng nhất là paste trong tricresyl-phosphonate hay dimetyl phthalate (khoảng 70% peroxide). Nó được dùng để đóng rắn nhựa polyester (ở nhiệt độ khoảng trên 80Oc) và thường được dùng với tỉ lệ 0,5-2% so với nhựa. Khi cho vào nhựa nó thường ở dạng paste vì ở dạng tra-5

Ngoài ra các chất xúc tác thuộc loại peroxide còn có:

Di-t-butyl peroxide (CH3)3-C-O-O-C-(CH3)3

Di-acetyl peroxide (CH3)3-CO-O-O-OC-(CH3)3

Hydroperoxide :

t-butyl-hydroperoxide (CH3)3-COOH

Cumen-hydroperoxide C6H5-C-(CH3)2-O-OH

Hai loại MEKP và HCH được dùng để đóng rắn nguội cho nhựa polyester.

MEKP là tên viết tắt cuả metyl ethyl keton peroxide, nó thực chất là hỗn hợp của một số hợp chất peroxide, thành phần thay đổi tùy thuộc vào nhà sản xuất. Nó là chất oxi hoá mạnh nên phải tránh tiếp xúc với oxi.

HCH là sản phẩm phản ứng giữa hydroperoxide với cyclohexanol peroxide và được gọi tên là cyclo-hexanol peroxide. Tuy nhiên nó là hỗn hợp của ít nhất hai trong bốn chất sau (theo Criegree, Schorenberg và Becke)

Xúc tác azo và diazo

Diazo aminobenzen: C6H5-NH-N=N-C6H5

Dinitric cuả acid diizobutyric: NC(CH3)2-N=N-C(CH3)2-COO-CN

Dimetyl ester cuả acid diizobutyric: C2H5-OOC-C(CH3)2-N=N-C(CH3)2-COO-C2H5

Chất xúc tiến

Chất xúc tiến là chất đóng vai trò xúc tác cho phản ứng tạo gốc tự do cuả chất xúc tác. Dùng chất xúc tiến sẽ giảm được nhiệt độ và thời gian đóng rắn một cách đáng kể và có thể đóng rắn nguội. Gồm các loại:

Xúc tiến kim loại

Xúc tiến kim loại là muối cuả kim loại chuyển tiếp như: cobalt, chì, mangan, ceri, … và các acid như: naphthenic, linoleic, octonic,… hoà tan tốt trong polymer. Loại xúc tác này thường dùng chung với các chất xúc tác dạng hydroperoxit (MEKP, HCH). Naphthenic-cobalt là loại thông dụng nhất thường dùng

Ngoài xúc tiến kim loại ở dạng muối, người ta còn dùng dạng phức, ví dụ: Ferrocen, dạng phức dicyclopentadienyl cuả sắt dùng để xúc tiến cho cumen peroxit khi cần đóng rắn nhanh ở nhiệt độ khoảng 80oC.

Amin bậc ba

Loại xúc tiến này thường được dùng với các chất xúc tác peroxide, thuộc loại này thường gặp

Dimetyl-aniline ( DMA ) : C6H5N(CH3)2

Dietyl-aniline ( DEA ) : C6H5N(C2H5)2

Dimetyl-p-toluidin ( DMPT ) : CH3C6H5N(CH3)2

CÔNG TY TNHH TM DV TOÀN TIẾN (TOTICO - Since: 2005) Chuyên phân phối & cung cấp vật liệu composite LÊ HÒA (Mr.) Direct Sales Manager Mob: (+84)949.329.799 | (+84)912 454 884 hoale@toantien.com | www.toantien.com | www.toantiencomposite.com

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

Công nghệ Composite - Nhựa polyester có hàm lượng styrene thấp

Mục đích của Styrene được cho vào nhựa polyester bất bão hòa hoặc nhựa vinyl ester nhằm 2 mục đích chính:
-          Pha loãng hỗn hợp để kiểm soát độ nhớt mà nhựa có thể thấm ướt được sợi gia cường.
-          Là cầu nối ngang trong phản ứng kết mạng của nhựa.
Các vật liệu, như styrene, đáp ứng được cả 2 chức năng trên được gọi là “tác nhân pha loãng hoạt tính”. Thật ra cũng có các tác nhân pha loãng hoạt tính khác như methyl methacrylate (MMA) nhưng vì ưu điểm vượt trội của styrene trong thị trường nhựa polyester và vinyl ester nên chúng ta sẽ tập trung giải quyết các vấn đề của styrene.
Styrene có khả năng đáp ứng được 2 chức năng trên với tổng chi phí thấp nhất trong khi cải thiện được tính chất của nhựa cũng như hiệu quả sản xuất. Ta hãy hình dung một chất pha loãng nhưng không hoạt tính thì yêu cầu sẽ phải bay hơi khỏi hỗn hợp khi đóng rắn trong khuôn. Một số nhựa epoxy gặp phải vấn đề này, tức là chất pha loãng sử dụng không hiệu quả.
Hoạt tính styrene ở đây nghĩa là bản thân nó được sử dụng trong phản ứng kết mạng ngang, trở thành cầu nối ngang trong mạng lưới polymer đã đóng rắn và giá thành của styrene thấp hơn bản thân mạch chính polymer. Sau khi đã phản ứng kết mạng ngang, styrene sẽ làm tăng độ cứng của vật liệu (nếu quá giới hạn sẽ trở nên dòn) đồng thời cũng cải thiện một số tính chất vật lý của sản phẩm.
Styrene cũng là chất pha loãng hiệu quả và rẻ tiền. Nó rất dễ pha loãng với hầu hết các loại nhựa hiện nay, làm cho hỗn hợp nhựa dễ thấm ướt sợi gia cường. do đó, styrene được xem gần như là lý tưởng.
Tuy nhiên, styrene lại nằm trong danh sách các chất gây ô nhiễm không khí khi nó bay hơi độc ra môi trường. Do đó, chúng ta phải làm giảm lượng hơi styrene bay ra trong quá trình sản xuất composite. Hiện nay, các công ty sản xuất nhựa đều đang nghiên cứu nhằm làm giảm lượng styrene trong sản phẩm của họ. Nếu phân tích về mặt hóa học thay đổi như thế nào để làm giảm lượng styrene thì rất phức tạp.
Vì vậy, dưới đây chúng ta chỉ thảo luận các phương pháp làm giảm lượng styrene trong nhựa một cách đơn giản nhất.
Cách thứ nhất: Biến tính hệ polyme
Nỗ lực đầu tiên từ các nhà sản xuất nhựa là biến tính nhựa (polyester và vinyl ester) sao cho nó cần ít styrene hơn. Mục tiêu này không chỉ về mặt thương mại mà còn phải cho kết quả nhanh. Họ nhận ra rằng nếu độ nhớt của nhựa (polymer) giảm thì lượng styrene cần thêm vào để đạt được độ nhớt hỗn hợp cũng giảm. Cách đầu tiên để giảm độ nhớt của nhựa là làm ngắn mạch phân tử (tức giảm khối lượng phân tử nhựa). Mạch polymer càng ngắn sẽ càng giảm tương tác nội giữa các mạch nên hỗn hợp dễ chảy hơn, tức độ nhớt thấp hơn. Do đó, lượng styrene cho vào hệ polymer khối lượng phân tử thấp hơn sẽ giảm, tuy nhiên việc giảm lượng styerene này sẽ ảnh hưởng đến lượng styrene cần để phản ứng kết mạng ngang. Vậy khi đó, phản ứng kết mạng ngang thay đổi như thế nào? Và việc thay đổi phản ứng kết mạng ngang này sẽ ảnh hưởng đến tinh chất của polymer ra sao?
Hai đặc tính kết mạng ngang sẽ thay đổi (lượng styrene giảm đi và tỷ trọng kết mạng ngang tăng lên). Việc giảm lượng styrene cho phản ứng kết mạng ngang dẫn tới tình trạng thiếu styrene ở vị trí phản ứng (nếu thừa styrene thì bản thân các phân tử styrene sẽ tự phản ứng với nhau, nối lại thành mạch dài; nếu thiếu styrene thì ở mỗi mắt lưới sẽ hình thành chỉ với một hoặc hai phân tử styrene). Việc giảm lượng styrene trong mạng lưới sẽ làm cho polymer đã đóng rắn ít dòn hơn. Tuy nhiên, mạch polymer ngắn hơn nghĩa là liên kết đôi cacbon – cacbon sẽ nhiều hơn và tạo ra số liên kết ngang nhiều hơn. Mà mật độ liên kết ngang nhiều hơn lại làm vật liệu dòn hơn. Hai hiệu ứng trái ngược này làm cho vật liệu sau đóng rắn có độ dòn trở về giá trị gần như chưa biến tính mạch polymer.
Nhiệt độ biến dạng nhiệt và khả năng kháng dung môi sẽ tăng lên khi tăng mật độ kết mạng ngang. Các tính chất khác như kháng UV, kháng phồng dộp, kháng nứt,.. đều bị ảnh hưởng nhưng mức độ phải được đánh giá trên từng loại nhựa và trường hợp ứng dụng. Và những tính chất này sẽ ảnh hưởng lên gelcoat nhiều hơn nhựa thông thường nên khi thay đổi gelcoat, nhà sản xuất phải kiểm tra kỹ.
Biến tính khác của nhựa là thay đổi phân bố khối lượng phân tử tức kéo dãn đường cong phân bố khối lượng phân tử, thậm chí khi khối lượng phân tử trung bình khá cao nhưng vẫn có một lượng đáng kể phân tử khối lượng thấp làm cho các phân tử trượt lên nhau dễ dàng hơn, vì vậy làm giảm độ nhớt của hỗn hợp. độ nhớt hỗn hợp nhựa giảm nghĩa là giảm lượng styrene thêm vào.

Cách thứ hai: Phát triển hệ polymer mới
Polyester được tổng hợp từ phản ứng của diaxit và glycol. Nếu thay đổi loại và lượng di-axit và glycol thì tính chất nhựa cũng thay đổi rất lớn (ví dụ sự khác nhau giữa nhựa iso và ortho chỉ là sử dụng hai loại axit khác nhau).
Ngoài việc thay đổi giữa các thành phần diaxit và glycol thì các nhà sản xuất nhựa cũng đang thử các loại diaxit và glycol mới mà đầu hướng tới tạo ra nhựa sạch, tức giảm lượng styrene sử dụng (Ví dụ như neopentyl glycol sẽ dễ tan trong styrene hơn các thành phần tương tự khác) và còn có thể cải thiện một số tính chất vật lý khác.
Một thay đổi khác có thể trộn nhiều loại diaxit và nhiều loại glycol lại với nhau, theo những thứ tự và tỷ lệ khác nhau, trong đó mỗi thành phần sẽ có hoạt tính khác nhau

Cách thứ ba — Sử dụng những loại monomer khác
Styrene không phải là monomer duy nhất hoạt động như chất pha loãng hoạt tính trong nhựa polyester và vinyl ester. Vì vậy, các monomer khác mà có áp suất hơi thấp hơn đang được nghiên cứu nhằm lựa chọn thay thế styrene. Monomer được tìm kiếm phải ó hoạt tính hóa học giống styrene nhưng khối lượng phân tử cao hơn nên áp suất hơi thấp hơn, ví dụ vinyl toluene hay t-butyl styrene nhưng giá thành lại cao hơn styrene.
Cách khác là sự kết hợp đơn giản 2 hay 3 monomer styrene lại với nhau thành dimer hoặc trimer và sử dụng làm tác nhân pha loãng. Vật liệu composite sau đóng rắn, khả năng thấm ướt sợi đều rất tốt nhưng giá của dimer, trimer cũng tăng đáng kể.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng đang tìm kiếm monomer mới hoàn toàn. Ví dụ như MMA nhưng nó cũng có độ bay hơi cao, cũng gây ô nhiễm không khí nhưng với một số hệ polymer thì MMA tương hợp tốt hơn nên sử dụng ít MMA hơn vẫn đạt được độ nhớt mong muốn. MMA cũng cải thiện một số tính chất vật lý của nhựa nhưng giá thành của MMA cũng cao hơn styrene.

Cách thứ tư – Ngăn cản không cho styrene bay hơi
Thường thêm wax vào hỗn hợp nhựa, tạo ra một lớp bề mặt ngăn cản hơi styrene bay lên đồng thời cũng cản oxy từ bên ngoài nên cải thiện được quá trình đóng rắn nhựa. Cách này đã và đang áp dụng rộng rãi, tuy nhiên khi có wax vào thì liên kết trong nhựa bị giảm. Khuyết điểm này được khắc phục bằng cách sử dụng các lớp liên diện (tăng khả năng kết dính trong hỗn hợp nhựa). Lớp liên diện có chứa các liên kết đôi cacbon-cacbon cho phép phản ứng tạo liên kết ngang xuyên qua, vì vậy độ liên kết của vật liệu 2 bên lớp màng được cải thiện. Lớp liên diện đạt hiệu quả cao nhất khi nằm ngang và hỗn hợp nhựa ở trạng thái tĩnh (không khuấy). Nếu bề mặt hỗn hợp không nằm ngang thì lớp liên diện không hiệu quả lắm, lúc đó phải cho thêm chất làm đặc và bản thân phụ gia làm đặc cũng làm giảm sự bay hơi của dung môi.

Kết luận

Các nhà sản xuất nhựa đang nỗ lực để tìm ra giải pháp tối ưu nhằm giảm thiểu lượng styrene bay ra môi trường. Các phương pháp, nguyên lý đã có và họ đang tiếp tục thử nghiệm, kiểm tra hoàn thiện để có thể công bố và thương mại hóa trong tương lai gần.
www.ToanTien.com Liên hệ kinh doanh: Mr Hòa - (+84)949.329.799

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

VẬT LIỆU COMPOSITE



CHUYÊN CUNG CẤP CÁC NGUYÊN VẬT LIỆU COMPOSITE

(Phạm vi: TOÀN QUỐC - Kinh nghiệm: Từ 2005)

Các sản phẩm đang kinh doanh:

- SỢI THỦY TINH (Mat200,225,300,450 - Woven Roving 600,800 - Direct Roving 2400,4800)

- NHỰA POLYESTER - UPE - 8120, 6120, 8201, 3330, 981C, 8141

- GELCOAT TRONG LB9888, 2740T

- GELCOAT TRẮNG LB9777

- TOOLING GELCOAT - P92 Gelcoat làm khuôn

- CHỐNG DÍNH KHUÔN Wax 8, Wax 250, Wax nước

- CHẤT ĐÓNG RẮN Trigonox V388, Butanox M50 (MEKPO)

- CHẤT TẨY RỬA Acetone, Toluen

- CHẤT KHỬ MÙI COMPOSITE Styrid (USA)

- PHỤ GIA: Cobalt 6%, SM, các loại màu, chất độn